Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

Vai Trò Của Các Dưỡng Chất Gluxit Và Axit Béo Đối Với Cơ Thể Của Chúng Ta Như Thế Nào

Các axit béo chưa no cần thiết ( linoleic , a - linolenic , arachidonic ) có vai trò quan yếu trong dinh dưỡng để chữa trị các eczema khó chữa , trong sự phát triển thường nhật của thân thể và tăng cường sức để kháng. Ngoại giả , chất béo còn rất cần thiết cho quá trình chế biến thổi nấu thức ăn làm cho thức ăn trở nên đa dạng , ngon miệng.
tiếp thụ và đồng hóa chất béo
- Các chất béo có nhiệt độ tan chảy thấp hơn 37oc , hệ số tiếp thụ khoảng 97-98%.
- Các chất béo có nhiệt độ tan chảy 38 - 39oc , hệ số tiếp thụ khoảng 90%.
- Các chất béo có nhiệt độ tan chảy 50-600 c , hệ số tiếp thụ khoảng 70-80%.
Như vậy , khẩu phần có chất béo với quá nhiều axit béo no sẽ dẫn đến ngăn lại trong một giới hạn nhất định tiếp thụ đồng hóa chất béo của thân thể. Địa ngục ta cũng nhận thấy rằng nếu hàm lượng các axit béo chưa no nhiều nối đôi quá cao ( 15% tổng số axit béo ) chúng sẽ không được đồng hóa tiếp thụ. Tỉ lệ phù hợp để tiếp thụ khi axít béo chưa no trong khẩu phần là 4% tổng số axit béo. Ðộ đồng hóa của một số chất béo như sau: bơ 93-98% , mỡ lợn 96-98% , mỡ bò 80-86% , dầu vừng 98% , dầu đậu nành 97 , 5%.


Gluxit
Các loại gluxit
- Mono saccarit: Glucoza , fructoza , galactoza là các phân tử giản đơn nhất của gluxit , dễ tiếp thụ đồng hóa nhất. Khác nhau về hàm lượng và chủng loại , các thực phẩm động vật và cây cỏ đều có chứa các phân tứ gluxit giản đơn này , tạo nên vị ngọt của thực phẩm.
- Disaccarit: Saccaroza , lactoza là các phân tử đường kép điển hình. Các disaccarit khi thủy phân cho 2 phân nhà thờ tổ tiên đơn. Disaccarit và monosaccarit đều có vị ngọt. Ví như saccaroza có độ ngọt là 100 thì fructoza có độ ngọt là 173 , lactoza là 16 và galactoza là 32 , glucoza là 79.
- Polysaecarit: Tinh bột ( amidon , amilopectin ) , glycogen , xenluloza là các dạng phân tử gluxít lớn. Hàm lượng và chủng loại của các phân tử gluxit này rất khác nhau trong các loại thực phẩm. Chúng có có tác động đến một điều gì đó lớn đến thể trạng và độ đồng hóa tiếp thụ của thực phẩm.
Vai trò dinh dưỡng của gluxit
Ðối với người vài trò chính của gluxit là sinh năng lượng. Hơn một nửa năng lượng của khẩu phần do gluxit cung cấp , 1g gluxit khi đốt cháy trong thân thể cho 4 kcal. Ở gan , glucoza được tổng hợp thành glycogen. Gluxit ăn vào trước tiên chuyển thành năng lượng , số dư một phần chuyển thành glycogen và một phần thành mỡ dự trữ.
ở mức độ nhất quyết , gluxit tham gia tạo tuồng như một thành phần nông dân của tế bào và mô. Trong thân thể xoành xoạch xẩy ra quá trình phân giải gluxit để tạo năng lượng nhưng hàm lượng gluxit máu xoành xoạch ở mức 80-120 Mg%.
ăn uống đầy đủ gluxit sẽ làm giảm phân hủy protein đến mức tối thiểu. Ngược lại khi cần lao nặng nếu cung cấp gluxit không đầy đủ sẽ làm tăng phân hủy Protein. Ăn uống quá nhiều , gluxit thừa sẽ chuyển thành lipit và đến mức độ nhất quyết sẽ gây ra hiện tượng béo phệ.
Gluxit tinh chế và gluxit bảo vệ
Dưới danh từ gluxit tinh chế , người ta ám chỉ những thực phẩm giàu gluxit đã phê duyệt nhiều mức chế biến làm sạch , đã khuất tối đa các chất kèm theo gluxit trong thực phẩm. Mức tinh chế càng cao , lượng mất các thành phần nông dân cấu tạo càng lớn , chất xơ bị loại trừ càng nhiều , hàm lượng gluxit càng tăng và thực phẩm trở nên dễ tiêu hơn. Gluxít tinh chế chính trong vấn đề gây béo phì , rối loạn chuyển hóa mỡ và cholesterol ở người nhiều tuổi , người già ít cần lao chân tay.
Thuộc loại gluxít tinh chế cao có:
- Các loại đồ ngọt , trong đó lượng đường quá 70% năng lượng hoặc tuy có hàm lượng đường thấp ( 40- 50% ) nhưng mỡ cao ( 30% và hơn ).
- Bột ngũ cốc tỉ lệ xay xát cao , hàm lượng xeluloza ở mức 0 , 3% hoặc thấp hơn cung thuộc loại gluxit tinh chế vì chúng dễ tạo mỡ để tích chứa trong cơ thể.
Người nhiều tuổi , người già , người ít cơ năng thể lực nên ngăn lại trong một giới hạn nhất định lượng gluxít tỉnh chế dưới 1/3 tống số gluxit khấu phần.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét